Tế lễ có 2 điểm khác với khấn và cúng:
– Tế lễ là cuộc dâng lễ vật một cách long trọng lên những vị Thần lớn như: Trời, Đất, Mùa Màng, Đức Khổng Phu Tử, Hai Bà Trưng, Đức Thánh Trần, Đức Tả quân Lê Văn Duyệt, các vị Thần Thành Hoàng của làng xã…
– Tế lễ còn được tổ chức một cách trọng thể với cờ xí, nhạc lễ và phẩm phục. Phẩm vật tế lễ là vật tam sinh: bò, dê, heo.
Mỗi buổi tế gọi là một diên tế. Thông thường có 2 diên tế : Túc Yết và Đoàn Cả (có khi đọc trại đi là Đàn Cả):
– Túc: Đêm (trực túc : gác đêm); Yết: ra mắt. Túc Yết là ‘Lễ hương chức làng dâng lễ ra mắt các vị Thần trong lúc “Kỳ Yên” (1). Như thế, chính ra diên tế Túc Yết phải cử hành về đêm hay ít ra là vào buổi chiều. Hiện nay, tại Lăng Ông Bà Chiểu, diên tế Túc Yết được cử hành vào buổi sáng, có lẽ là vì lý do an ninh cũng như để quan khách từ xa có thể tới tham dự được.
– Đoàn: một đám người đông đảo. Cả: lớn, đông. Đoàn Cả là sự tề tựu đông đủ dân làng và khách thiện tín để tế lễ Thần. Đoàn Cả là diên tế chính trong dịp lễ Kỳ Yên tại các đình làng cũng như trong lễ giỗ của các miếu thờ Thần. Học giả Huỳnh Tịnh Của viết : “Chính lễ tế thần, nhằm ngày thứ hai. Phép Kỳ Yên rồi qua ngày sau thì Đoàn Cả.”
Mỗi diên tế Túc Yết hay Đoàn Cả gồm có các nghi thức tuần tự như sau :
Thành phần ban Tế:
– Chủ tế (còn gọi là Tế chủ, hay Chánh tế): Chủ tế chủ trì nghi lễ là người cao niên có phẩm hàm hay đỗ đạt cao nhất làng hoặc là ông tiên chỉ, ông nhất đám của làng… hay một nhân sĩ có uy tín của hội đoàn.
– Bồi tế: Hai (hoặc bốn) người bồi tế giúp chủ tế và cứ trông chủ tế mà lễ sao làm vậy
– Đông xướng, Tây xướng: Hai người Đông xướng và Tây xướng đứng đối diện hai bên hương án xướng (đọc) nghi thức hành lễ. Vai trò này có thể được xem như là một hình thức “em xi (MC)” – người điều khiển chương trình – của buổi lễ.
– Nội tán: Hai Nội tán đứng hai bên chủ tế hướng dẫn ra vào và trợ xướng. Nhiều trường hợp, để cho đơn giản tiện sổ sách, vai trò hai Đông Xướng và Tây xướng được hai Nội tán kiêm nhiệm luôn thể…
– Chấp sự: Những người chấp sự (vai trò “tà loọc”) đứng hai bên lo việc điếu đóm (dâng hương, dâng rượu, chuyển chúc, đọc chúc …)
– Đồng văn: Người lo việc đánh chiêng trống.
Nghi thức tế trải qua bốn giai đoạn :
1- Nghênh thần: chủ tế lễ 4 lễ – 2- Hiến lễ: dâng lễ 3 lần, mỗi lần chủ tế và bồi tế đều quỳ để hiến lễ, đọc văn tế (đọc chúc) – 3- Ẩm phúc và thu tộ: Chủ tế nhận lộc thần linh ban – 4- Lễ tạ: Chủ tế lễ 4 lễ.
Cách thức ăn mặc và động tác trong tế từ lâu đã được cung đình hoá.
Vái lạy trong các nghi thức Tế lễ
“… Từ đời xưa, vua đối với bày tôi, bố vợ đối với chàng rể, người tôn trưởng với kẻ ti ấu đều phải lạy đáp lễ… Đến đời nhà Tần mới đặt ra lễ “tôn quân ti thần,” nên thiên tử không đáp lạy bày tôi nữa… Từ quan khanh sĩ trở xuống đều theo cổ lễ mà đáp lễ kẻ ti ấu (bề dưới), nếu kẻ ti ấu chối từ, mới dùng lễ túc bái đáp lại. Còn vái là nghi thức lúc đã lễ xong…. Nước ta xưa kia có chốn công đường có lễ tông kiến, kẻ hạ quan, cũng vái bậc trưởng quan. Gần đây những kẻ hiếu sự không biết xét đến cổ điên lại cho là lễ của tôn trưởng đối với kẻ ti ấu, còn kẻ ti ấu đối với tôn trưởng không được vái, chỉ lạy xong là cứ đứng thẳng và lùi ra…” (Trích Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ trang 174).
Xem đoạn văn trích dẫn trên ta thấy vái lạy là một phép xã giao, không chỉ vái lạy người trên mà người trên cũng vái lạy đáp lễ. Từ lạy nhau chuyền sang vái nhau trong buổi tương kiến, đến nay ta tiếp thu văn hoá Âu Tây vẫn giữ được phép tôn ti (tôn trưởng ti ấu).
Theo phong tục lễ giáo của ta, bề dưới phải chủ động chào bề trên trước, trẻ chào già trước, trò chào thầy trước. Nếu bề trên không chào lại người dưới, thầy không chào lại trò, tức là không đáp lễ, thì cũng bất lịch sự chẳng khác gì từ chối người khác, làm cho người đưa tay trước ngượng ngùng và bất bình. Không biết vái, chào lại người khác là đã tự làm mất đi phong cách lịch duyệt của chính mình.
Theo Đạo giáo (Lão giáo), chủ trương “tay trái” là “tay tôn kính” vì theo tập quán “Người nước Sở trọng tay trái, mà Lão Tử lại là người nước Sở,” ví thế nên “phía bên trái” được coi trọng.
Khi cúng tế, người ta dùng tay trái để cắm nhang vào lư hương. Khi quì lạy, bàn tay phải nắm lại, bàn tay trái bao nắm tay phải, đưa hai tay lên giữa hai lông mày rồi quì xá xuống đất. Khi lạy xuống thì quì gối phải trước rồi mới tới gối trái. Khi đứng lên thì gối trái co lên trước kế đến gối phải rồi toàn thân đứng lên. Cũng có nơi quì hai gối xuống và lên cùng một lúc. Phật giáo khi lạy thì chấp hai bàn tay lại rồi xá xuống, còn Đạo giáo thì nắm bàn tay như trên, hai bên có hình thức khác nhau.
Ngày xưa, người ta lấy hình thức “bốn lần quì thực hiện tám lần xá” gọi là “lễ kính tối cao.” Nữ cư sĩ thì lạy có khác với nam cư sĩ, hai gối quì một lượt, nắm tay chỉ cần đưa ngang cổ rồi xá xuống một cách nghiêm cẩn là được.
Tư thế thắp hương lễ bái là, tay phải cầm nhang, tay trái bao ngoài tay phải, đưa lên ngang ngực (không cần phải đưa lên tới ngang hai lông mày hoặc lên khỏi đầu). Đầu nhang hơi nghiêng xéo một chút, nếu xá cao cũng không đưa nhang quá hai lông mày, nếu xá thấp thì từ ngực xá xuống, giống như vẽ thành một nửa vòng tròn.
Nếu không cầm nhang thì hai tay nắm lại như trên, đưa lên ngang ngực, đầu cúi xuống thành nửa vòng tròn.
Về mặt phẩm vật cúng tế, Đạo giáo chọn “tứ hỉ ngũ quả,” cúng dường bốn món, sáu món, bảy món hoặc mười món, chứ tuyệt không có chủ trương giết heo mỗ dê để cúng tế.
– Tứ hỉ gồm: Trà, rượu, mì sợi, cơm.
– Bốn món cúng dường là: bông hoa, nước trà, nhang, đèn sáp.
Trong đó, nhang tượng trưng cho sự “vô vi,” bông hoa tượng trưng cho “tự nhiên,” nước trà tượng trưng cho “thanh tịnh,” đèn sáp tượng trưng cho sự “thuận hóa : biến hóa theo chiều thuận,” nghĩa là bốn món nêu lên ý niệm cơ bản của Đạo giáo : “thanh tịnh, vô vi, tự nhiên, thuận hóa.”
– Bảy món cúng dường là: nhang, hoa, đèn sáp, nước trà, trái cây, cơm, âm nhạc.
– Mười món cúng dường là: nhang, đèn , bông , trái, trà, cơm, rau cải, vàng bạc, châu ngọc, y phục.
Thủ Tục / Diễn tiến Tế Lễ.
Diển tiến buổi Tế tương tự như lớp lang của một bản kịch ngắn mà ban Tế cần hiểu biết trước thật rõ ràng; đôi khi phải tập dượt nhiều lần cho suông sẻ, để giữ sự long trọng của buồi tế. Chi tiết diễn tiến thay đổi tùy miền, tùy loại Tế.
Sau đây xin liệt kê thủ tục điễn tiến của một buổi lễ tiêu biểu (của một giòng họ). Thủ tục sẽ được Đông xướng, Tây xướng (hay Nội tán) đọc lớn từng bước, làm từng giai đoạn một – Ngày nay, chỉ nên đọc (hoặc làm) phần chữ Việt trong ngoặc là đủ) :
1. Khởi chinh cổ (Nổi trống chiêng)
2. Nhạc sinh tựu vị (Ban nhạc vào vị trí)
3. Củ soát tế vật (Kiểm tra lễ vật cúng)
4. Chấp sự giả các tư kỳ sự (Những người phụ trách cúng vào vị trí của mình)
5. Tế chủ dữ chấp sự giả các nghệ quán tẩy sở (Chủ tế và mọi người phụ trách cúng vào chỗ rửa tay)
6. Quán tẩy (Rửa tay)
7. Thuế cân (Lau tay)
8. Bồi tế viên tựu vị (Bồi tế vào vị trí)
9. Chủ tế viên tại vị (Chủ tế vào vị trí)
10. Thượng hương (Dâng hương)
11. Nghinh thần cúc cung bái (Chủ tế và bồi tế lạy sụp cả xuống)
12. Hưng (Chủ tế và bồi tế đứng dậy)
13. Bái (Lạy)
14. Hưng (Đứng dậy)
15. Bình thân (Đứng ngay thẳng)
16. Hành sơ hiến lễ (Lễ dâng rượu lần đầu)
17. Nghệ tửu tôn sở, tư tôn giá cử mịch (Chủ tế đi ra chỗ án để rượu, người chấp sự mở cái miếng phủ trên mâm đài ra)
18. Chước tửu (Rót rượu)
19. Nghệ đại vương thần vị tiền (Hai người nội tán dẫn chủ tế lên chiếu nhất)
20. Quỵ (Tế chủ và bồi tế quỳ cả xuống)
21. Tiến tửu (một người chấp sự dâng đài rượu đưa cho tế chủ vái một vái rồi giao trả người chấp sự)
22. Hiến tửu (các người chấp sự dâng rượu đi hai bên, hai tay nâng cao đài rượu đi vào nội điện. Xong trở ra)
23. Hưng, bình thân, phục vị
24. Độc chúc (hai người chấp sự vào bàn trong kính cẩn bưng văn tế ra)
25. Nghệ độc chúc vị (người nội tán dẫn chủ tế lên chiếu trên)
26. Giai quỵ (tế chủ, bồi tế, hai người bưng chúc đọc chúc đều quỳ cả xuống)
27. Chuyển chúc (người bưng chúc đưa cho chủ tế. chủ tế cầm lấy, vái một vái rồi đưa cho người đọc chúc)
28. Độc chúc (người đọc chúc lần này đọc bản văn tế. Đọc xong văn tế, chủ tế lạy hai lạy rồi ra phía ngoài. Sau đó lại xướng lễ trở lại để dâng hai tuần rượu nữa. Tuần thứ hai là Á hiến lễ và tuần thứ ba gọi là Chung hiến lễ)
29. Ẩm phúc (hai người vào nội điện bưng ra một chén rượu và một khay trầu)
30. Nghệ ẩm phúc vị (người chủ tế đi ra bước lên chiếu thứ nhì)
31. Quỵ (tế chủ quỳ xuống. hai người đưa chén rượu, khay trầu cho chủ tế)
32. Ẩm phúc (chủ tế bưng lấy chén rượu vái, lấy tay áo che mồm uống một hơi hết ngay)
33. Thụ tộ (chủ tế cầm khay trầu vái rồi ăn một miếng)
34. Tạ lễ cúc cung bái (chủ tế và bồi tế cùng lạy tạ bốn lạy)
35. Phần chúc (người đọc chúc đem văn tế đốt đi)
36. Lễ tất (tế đã xong)
Trong buổi Tế lễ này có mấy điều chú ý như sau
– Khi chủ tế di chuyển đổi chỗ trên các chiếu, từ chiếu dưới lên chiếu trên thì phải bước ra khỏi chiếu rồi bước lên về phía bên phải của mình, và khi trở xuống cũng bước ra khỏi chiếu trở về phía bên trái của mình tức là bên phải của bàn thờ.
– Hai người bồi tế ngoài nhiệm vụ phụ giúp chủ tế trong việc hành lễ còn có nhiệm vụ thay thế người chủ tế nếu người này vì bất cứ lý do gì không hành lễ được.
– Khi đốt sớ, mọi người dự tế đều phải đứng quay mặt và ngó vào chỗ đốt sớ.
Văn tế, văn chúc
Bài văn Tế thường do Chủ tế đọc. Nhưng cũng có thể do một người nào đó trong ban Tế đã được chỉ định trước. Ngày xưa, bài Văn Tế thường viết bằng chữ Hán… Tuy nhiên ngày nay dân gian dùng thẳng chữ Quốc ngữ (tương tự như văn khấn của cúng giỗ).
Cụ Dương Quảng Hàm định nghĩa văn tế ‘là một bài văn đọc lúc tế một người chết để kể tính nết công đức của người ấy và tỏ tấm lòng kính trọng và thương tiếc của mình’ (Dương Quảng Hàm. Việt Nam Văn Học Sử Yếu. Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu, Sài Gòn, 1968. Tr144). Định nghĩa như thế cho nên Cụ Dương đã chia các đoạn mạch của một bài văn tế ra như sau:
1/ Đoạn mở bài
2/ Đoạn kể công nghiệp, đức tính của người chết
3/ Đoạn than tiếc người chết
4/ Đoạn tỏ tình thương nhớ của người đứng ra làm lễ tế.
Tuy nhiên, bài văn tế có thể có các bố cục hơi khác một chút tùy một loại Tế.
Bài Văn tế tiêu biểu
(bài này thấy xử dụng ở Lăng Ông Bà Chiểu và ở các đình làng Miền Nam). Lược dịch phần Lòng linh của bản Văn Tế Túc yết :
Thưa rằng :
Kính cẩn thưa Đức Thượng Công là sao sáng của song núi, do khí linh thiêng của song biển đúc thành. Chức giữ ba quân, đánh Bắc, dẹp Đông. Công mở nước thật không phải nhỏ. Quyền hạn đảm đương muôn dặm, miền Đông yên, vùng Tây lặng. Sức giữ yên đất nước, khó có ai tiến tăm bằng. Lúc sống thì làm tướng, khi chết trở nên Thần sáng rực rỡ vang lừng mà tiếng hiển hách chói lọi cao. Lúc vua nguy khốn thì phò, khi nướv yếu thì trợ. Hiếm có thay lúc Ngài sống đã tranh đấu cho sự vinh dự. Giúp đỡ dân mà hiển hách. Rất đẹp mà linh thiêng.
Thưa rằng, nhân lúc trời mùa Thu, cử hành lễ Túc Yết cung kính. Làm lễ vào buổi sáng sớm. Xin cáo với bậc Thần minh cảm nhận cho. Khấn nguyện bằng lễ này mong Ngài độ trì phù hộ. Vòi vọi ở trên đó, ngửa trông ban điềm lành, ban phước. Cao cả nơi linh thiêng, tất cả bằng Thần lực, không có điều xấu, không có thanh âm. Cúi lậy Đức Thượng Công ban cho thêm ân huệ.
Nay cúi lậy kính cẩn mà thưa vậy.
Lược dịch phần Lòng linh của bản Văn Tế Đoàn Cả:
Thưa rằng:
Kính cẩn thưa Đức Thượng Công, là bậc mở nước có công đầu, ít có ai trong triều đình lại giúp vua lớn như thế.
Làm hưng thịnh lên, phụ tá rực rỡ, quét sạch bọn tàn bạo, Làm bậc hổ tướng với quyền tước đương thời, dẹp yên bọn Chân Lạp, Xiêm La gian tham.
Tướng tài ít có hai, tài thao lược giúp được nhiều công lắm. Quốc sĩ vô song, trí dũng đáng tôn xưng là lớn cả.
Trải hơn 10 năm, dẹp yên quân cường khấu, tiếng thơm lừng lẫy chốn quân triều.
Mấy chục năm trời, đứng đầu nơi phiên trấn, oai dũng vang xa đều biết tới.
Hết lòng nuôi dân, mến kẻ sĩ, phong cách bậc nhân được nhớ lâu bền ở lòng người.
Để ý giúp đời trị nước, thành tích chánh đáng mãi còn trong sử chép Kính trọng lập đàn mà bái vọng, nghiễm nhiên lẫm liệt oai hùng,
Tôn sùng miếu vũ mà nhớ công cao cả dương dương chính khí.
Trộm nghĩ rằng:
Hội đã trải qua nhiều nỗi gian khổ mà giữ sự thờ cúng bằng cách chỉnh tu Lăng Miếu cho lâu dài,
Gặp nhau mà bàn tán thu góp tiền bạc tu bổ hầu trang trải các kinh phí xây cất.
Hết lòng truy tìm vết tích cũ để hoài niệm và tưởng nhớ khôn nguôi đến Đức Thượng Công.
Lòng xúc cảm mà ngưỡng mộ không dứt.
Nghĩ rằng:
Nhân lúc tiết trời mùa Thu, nhớ lệ cũ mà ca diễn, kính cẩn làm lễ dâng cỗ bàn thanh khiết, mong chứng giám cho sự thờ kính này.
Kính dùng nhang đèn, mong Ngài hiểu cho lễ đơn giản yên lặng,
Ngửa trông Ngài ban đến mọi nhà trong thôn làng đều được phong hanh.
Nhận hưởng ở lòng thành, lũ bản Hội những mong ơn tốt đẹp.
Nay kính cẩn mà thưa vậy.
Hai đọan Long linh ở trên được ghi chép lại / trích từ bản Văn tế theo diễn tiến của lễ Kỳ yên (1) Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt.
Ghi chú:
(1) Tế Kỳ yên, Tế kỳ phúc, là gì ?
– Theo Phan Kế Bính, ờ miền Nam, các lễ hội lớn gọi là Kỳ Yên; và .ở đồng bằng sông Hồng, Bắc phần, cũng theo Phan Kế Bính ghi lại, hàng năm làng tổ chứcTtế Kỳ phúc (cầu an, cầu phước), từ 10 tháng 2 đến 15 tháng 2 với nghi thức và nội dung giống hệt như Kỳ Yên ở miền Nam – Lễ tháng 2 là Tế Kỳ Phúc còn gọi là “Xuân tế.”
– Sách “Gia Định thành thông chí” (mục Phong tục chí) của Trịnh Hoài Đức có đoạn giới thiệu lễ Kỳ yên ở miền nam xưa như sau:
Cúng Kỳ yên : mỗi làng (ở Nam Bộ) có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về…
Hiện nay, lễ Kỳ yên cũng được tổ chức trong ba ngày, gồm nhiều lễ tế khá phức tạp nhưng cũng khá bài bản, trong đó có ba lễ chính là: Túc yết, Đàn cả (quan trọng nhất) và Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền. Tuy mỗi nơi có thể khác về giờ giấc, thứ tự & chi tiết, nhưng thường thì các lễ được tiến hành đại để như sau:
Ở lễ Kỳ yên, phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần “hội.” Các đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông đảo không chỉ riêng có thần Thành hoàng Bổn cảnh. Lễ này là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện, vui chơi. Những tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng. Còn hát xướng trong ngày lễ Kỳ yên không phải là văn nghệ bình thường mà mang nội dung nghi lễ. Chương trình văn nghệ phải có nội dung đạo lý, kết thúc có hậu. Đặc biệt tiệc tùng trong ngày lễ Kỳ yên ở đình làng Nam Bộ chỉ mang tính liên hoan, chiêu đãi, hoàn toàn không có tục “chiếu trên, chiếu dưới,” nhậu nhẹt say sưa như những nơi khác.
Lễ Kỳ yên thu hút đông đảo nhân dân quanh vùng qui tụ về với lễ vật trên tay, người nào cũng trang phục chỉnh tề, quỳ lạy trước bàn thờ và cầu nguyện thần linh sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, sản xuất phát triển, nhân dân ấm no. Như thế, lễ Kỳ yên mang hai ý nghĩa: vừa tưởng nhớ một vị có công khai phá miền Nam Bộ, vừa cầu mong một cuộc sống no đủ. Cho nên, đây là một sinh hoạt văn hoá dân gian đáng được bảo tồn, duy trì và tạo điều kiện phát triển.
Trần Văn Giang